Mạt chược là một môn chơi cờ có nguồn gốc từ Trung Hoa, có
thể đến 4 hay 6 người chơi cùng lúc.
Từ ngữ
Mạt chược là một từ Hán Việt kép, được phiên âm theo tiếng
Quảng Đông (Ma tước) nghĩa là con chim sẻ vừng, còn phiên âm theo tiếng Phổ
Thông (Quan Thoại) là Ma Gioong, vì thế trong tiếng Anh là Mahjong. Trong bài Mạt
chược thì ký hiệu con chim sẻ là con bài thứ nhất của bộ bài, tức là con Nhất
Sách.
Nguồn gốc
Có giả thuyết cho rằng, Mạt chược do một nhà quý tộc ở Thượng
Hải sáng tác khoảng những năm 1850, có người nói rằng khoảng từ 1870-1875, và
khởi đầu nó là những con bài làm bằng giấy. Không hiểu từ khi nào nó trở thành
những con bài bằng chất liệu cứng như hiện nay.
Dù là một thể loại game
bài nhưng nó đòi hỏi
người chơi phải có trình độ, hơn nữa việc chế tác những con bài đòi hỏi nhiều
công phu và dĩ nhiên tốn kém, ngay cả trước 1975 ở miền Nam Việt Nam chỉ những
dân trí thức hoặc giàu có mới chơi Mạt chược, còn giới bình dân thì ít ai biết
đến, cũng chỉ vì nó khó học, khó chơi và rất đắt tiền khi sắm bài, sắm bàn. Vì
thế ở thời kỳ trước người dân vẫn chủ yếu là chơi bài tam cúc nhiều hơn.
Những bộ Mạt chược ngày xưa thường được làm bằng gỗ, hoặc
xương, bài của những đại phú gia hoặc các vương tôn công tử, hoặc những quý tộc,
cung đình nghe nói làm bằng ngà voi. Ngày nay, hầu hết bài Mạt chược được làm từ
nhựa PVE hoặc PVC. Những bộ bài thường thì các quân bài được dập và sơn bằng
máy, bài đặc biệt được khắc bằng tay, trước 1975 trong Chợ Lớn nhiều người dùng
máy khắc thẻ bài để khắc bài Mạt chược vì thế những quân bài có đường nét rất
thanh và đẹp. Nhưng dù làm bằng chất liệu gì thì bài Mạt chược phải đạt được một
số yếu tố như vuông vức, đều đặn, không tì vết, phải bền chắc và tạo tiếng kêu
vui tai khi va chạm với nhau. Sở dĩ chơi Mạt chược được gọi là "xoa"
Mạt chược cũng do khi làm bài người chơi xoa bộ bài trên mặt bàn để trộn bài
thay vì xào bài như các loại bài giấy, bài thẻ.
Các quân bài
Trước khi nói về các quân bài Mạt chược, có lẽ cũng nên nói
cho biết về cái bàn để chơi Mạt chược. Bàn để chơi Mạt chược của người Hoa khá
đơn giản, nó là một cái bàn hình vuông, mỗi cạnh khoảng 80 cm và cao chừng
60–85 cm, khi chơi người ta thường trải một tấm khăn để khỏi làm hư bài. Nhưng
cái bàn để xoa Mạt chược của người Việt thì lại là một cái bàn đặc dụng, cũng
là một cái bàn vuông nhưng mỗi cạnh khoảng từ 90–95 cm và có gờ chung quanh, gờ
cao khoảng 3–4 cm được bọc da hoặc nỉ, mặt bàn cũng được lót bằng một loại chất
liệu nylon hoặc mica, cứng, trơn láng, màu tối thường là màu xanh lam hoặc xanh
lục để quân bài màu trắng hoặc màu ngà nổi bật. Mục đích phải phủ mặt bàn bằng
chất liệu trơn láng và cứng để khi xoa bài, những quân bài không rớt ra ngoài
và dễ dàng chạy trên mặt bàn. Khi chơi lâu thường thì mặt bàn sẽ bị dơ, độ trơn
láng sẽ kém và người ta thường phải thoa phấn để dễ xoa hơn, cũng hơi bất tiện.
Bàn Mạt chược của người Việt cao khoảng 90 cm.
Bài Mạt chược tuy do người Hoa sáng tạo, nhưng qua thời gian
cách chơi Mạt chược giữa người Việt và người Hoa có nhiều khác biệt, vì thế bộ
bài cũng khác biệt. Người Hoa chơi bài chỉ có 144 quân, nghĩa là chỉ có 2 bộ
hoa và không có khung. Trước 1975 người Việt đã chơi bài có 4 bộ hoa và 1 bộ
khung, tổng số quân bài lên tới 160. Còn bây giờ bài thông dụng có tới 4 bộ
khung, thậm chí 4 bộ rưỡi, nghĩa là thêm 4 con "nhị khẩu". Ở đây
chúng ta nói về bộ bài căn bản này, nghĩa là 1 bộ khung và 160 quân, được chia
ra như sau:
Bài nạc gồm 3 loại là:
Sách: biểu thị bằng những thẻ trúc màu xanh lam, từ 1 tới 9,
đặc biệt quân nhất sách biểu thị bằng con chim sẻ. Có 4 con mỗi loại quân như vậy.
Vạn: tất cả những con bài này đều màu đỏ, viết số Tàu từ 1 tới
9 Và thêm 1 chữ bên dưới.
Văn: biểu thị bằng những vòng tròn nhỏ cũng từ 1 tới 9
Tài phao: còn gọi là gió, gồm 7 loại, mỗi loại 4 con là:
MJf1.pngMJf2.pngMJf3.pngMJf4.png Đông Nam
Bộ Khung, là những con bài đại diện, thay thế cho những con
bài khác, gồm 2 loại khung:
Khung Xanh, có 4 con là
Tổng: Thay thế cho tất cả mọi con bài, kể cả hoa.
Thùng: Thay thế cho những con thuộc hàng Văn
Soọc: Thay thế cho những con thuộc hàng Sách
Màn: Thay thế cho những con thuộc hàng Vạn
Khung Đỏ, cũng có 4 con là
Hoa: Thay thế cho tài phao
Hỷ: Thay thế cho 4 gió
Nguyên: Thay thế cho Trung Phát Bạch
Hợp: Thay thế cho các con bài nạc Văn Sách Vạn
(Những bộ bài có từ 2 bộ khung trở lên còn có thêm từ 1 tới
4 khung đặc biệt gọi là nhị khẩu, là quân bài có viết 2 chữ nhỏ hỉ và nguyên,
nó thay thế cho nguyên và hỷ)
Cũng cần chính danh cho các tên gọi, như đã nói ở trên, Mạt
chược tuy do người Tàu sáng tạo, nhưng đã bị Việt hoá, thậm chí ngay cả tên
chính của quân bài cũng bị Việt hoá, điển hình là quân Văn, chữ (đọc theo âm
Hán Việt là đồng, nghĩa là kim loại đồng, còn đọc theo phiên âm Quảng Đông là
Thùng) quân bài biểu thị bằng những vòng tròn nhỏ tượng trưng cho các đồng xu
(cent) hoặc đồng trinh (1/10 cent) vì thế nó không liên quan gì đến chữ Văn cả.
Có thể các cụ ngày xưa chơi Tổ Tôm quen nên đã đồng hoá tên gọi theo các con
bài Tổ Tôm cho dễ gọi, dễ nhớ chăng, bởi cách chơi Mạt chược cũng có nhiều điểm
giống với Tổ Tôm như phu ngang, phu dọc... dù sao thì chúng ta chỉ chơi, chỉ gọi
theo những gì được truyền lại, tuy nhiên biết về cội nguồn cũng có điểm hay.
Tứ Hoàng (cũng gọi là Vương) đánh số từ 1 tới 4 và bên dưới
là chữ Hoàng
Tứ Hậu, đánh số từ 1 tới 4 và bên dưới là chữ Hậu
Cách chơi
Để chơi Mạt chược phải có từ 4 đến 6 người. Nếu có 6 người
thì 4 người chơi, 2 người ngồi ngoài dự bị nhận gió Trung và gió Phát, hết gió
Đông, 2 người này vô và 2 người cửa Đông và cửa Tây ra, còn nếu 5 người thì người
thứ 5 gió Trung sẽ thế người gió Đông khi hết vòng gió.
Bắt đầu chơi, một người gieo 3 con xúc xắc để chọn chỗ (2
con 1 màu và 1 con khác màu). Người được cửa Đông sẽ gieo xúc xắc để bắt đầu, 1
con để chỉ tụ bài nằm cửa nào, tổng số sẽ chỉ bắt bài từ hàng thứ mấy đếm từ phải
qua trái. Nếu chỉ có 4 người chơi thì lần đầu tiên gieo xúc xắc trúng cửa nào,
người ở cửa đó sẽ là cửa Đông, còn từ 5 người thì ai được cửa Đông sẽ giữ cái,
gọi là nhà cái, những người còn lại là nhà con.
Lấy bài hay bắt bài mỗi người 13 quân, cửa cái 14 quân và sẽ
đánh ra 1 quân đầu tiên. Khi tới hay ù thì sẽ có 14 quân.
14 quân bài khi tới được chia ra là 4 phu, mỗi phu 3 quân và
1 cặp mắt. Có 2 loại phu là phu ngang và phu dọc, dù ngang hay dọc tất cả các
phu đều phải cùng một loại, một hàng. Ví dụ sách ăn theo sách, văn theo văn, vạn
theo vạn, tài phao theo tài phao. Phu ngang là 3 con giống nhau, nếu có 2 con
mà người khác đánh ra bất kỳ từ cửa nào cũng có quyền ăn, khi đó phải xướng lên
"phỗng" hoặc "đôi", phu dọc là theo thứ tự, ví dụ 234,
345…và chỉ được ăn khi người trên đánh xuống, khi tới thì bất kỳ cửa nào đánh
cũng được. Tất cả tài phao đều là phu ngang.
Cửa cái, sau khi bắt bài nếu có hoa hoặc khung thì dựng, trường
hợp chỉ có 1 hoa có quyền đánh hoặc dựng, nhưng từ 2 hoa bắt buộc phải dựng.
Hoa đúng cửa thì được tính phán và không được đánh khung nữa, còn nếu không có
hoa cửa vẫn được quyền đánh khung (nhiều nơi không cho). Dựng xuống bao nhiêu
hoa hoặc khung thì được bắt lại bấy nhiêu quân bài ở chồng ngược lại gọi là đầu
coong. Nếu đủ 14 con bài mà tròn, nhà cái sẽ ù gọi là Thiên Ù.
Sau khi cả làng đã lấy hoa xong thì nhà cái sẽ đánh ra 1 con
bài rác, người kế tiếp nếu ăn không được và không bị ai phỗng (lấy vào hay ăn
bài) thì sẽ được bắt 1 con vào bài từ chồng bài thuận, và sau đó sẽ phải đánh
đi 1 con.
Cứ đánh và bắt bài như vậy cho tới khi bài tròn, nghĩa là
khi đủ 4 phu và 1 mắt thì được ù. Nếu bắt lấy mà ù thì gọi là ù cái và cả làng
phải chung cái, còn nếu người khác đánh cho ù thì ai đánh phải chung cái, 2 người
kia sẽ chung con. Thông thường chung cái sẽ gấp đôi chung con (không kể điểm
thưởng), vì thế tránh chung cái cũng là một cách đánh để đỡ phải thua nhiều, và
đây là một nghệ thuật cũng như chiến thuật căn bản của người chơi Mạt chược: Ăn
lớn, chung nhỏ.
Cách gọi tên và tính điểm
Mạt chược hấp dẫn người chơi hơn các môn bài bạc khác vì nó
có tính toán, sắp đặt. Cũng là một ván bài đó, người chơi giỏi sẽ tạo nên ván
bài lớn, nghĩa là tới nhiều điểm, ở đây gọi là phán. Mốc quan trọng khi chơi là
làm sao để "tới mủn" nghĩa là tới 6 phán và cứ mỗi bội số của 6 phán
là thêm 1 mủn.
Mỗi ván bài khi tới sẽ có một tên gọi tuỳ theo kết cục của 4
phu, và cũng từ đó người ta sẽ tính điểm cho ván bài tới.
Xuông (hay cà ri): là tên gọi của một ván bài tạp, nghĩa là
khi tới 4 phu bài có đủ thứ, cả tài phao, cả phu ngang, phu dọc. Bài này không
được tính phán, cả làng cùng chung 1 đơn vị, không chung cái, con. Đây là ván
bài nhỏ nhất.
Phình: 4 phu bài đều là phu dọc, ván bài này được tính 1
phán nghĩa là người đánh chung gấp đôi người khác, hoặc bốc lấy thì cả làng
chung 2 đơn vị.
Tui tui: 4 phu bài đều là phu ngang, ván bài này được tính 3
phán. Không khung được thêm một phán.
Lai hàng: bài gồm 2 loại vừa tài phao vừa 1 hàng bài có cả
phu ngang và phu dọc, ván bài này cũng được tính 3 phán, nhưng được cộng thêm
phán của tài phao, nếu phu đó có điểm, ví dụ cửa 2 gió Nam thì được 1 điểm nếu
có phu Nam.
Tui tui lai: 4 phu bài gồm tài phao và một hàng bài phu
ngang, ván bài này được tính 6 phán (mủn). Đây là loại bài lớn. (dĩ nhiên cũng
được tính thêm phán tài phao, nếu có.)
Toàn hàng: bài gồm 1 hàng (văn, sách, vạn) nhưng cả phu ngang
lẫn phu dọc và có cả khung), không có phu tài phao, ván bài này cũng 1mủn. Nếu
bài không có khung sẽ được 2 mủn, hoặc tui tui toàn hàng cũng 2 mủn, tui tui
toàn hàng không khung 3 mủn.
Không hoa lá: là ván bài không có hoa và khung trong bài,
ván bài này được tính 1 mủn, nếu có cước sắc tính thêm, nếu có đánh khung được
tính thêm phán cho khung đánh đi.
Tiểu tam nguyên: bài gồm 2 phu nguyên và 1 phu nguyên nữa
làm mắt, bắt buộc phải đủ 3 loại Trung Phát Bạch, ván bài này được tính 5 phán.
Nếu thêm tui tui hoặc lai hàng sẽ tính thêm mỗi thứ 3 phán.
Đại tam nguyên: gồm 3 phu Trung Phát Bạch, 8 phán. Nếu thêm
tui tui hoặc lai hàng sẽ tính thêm mỗi thứ 3 phán.
Cả 2 ván bài này nếu không có khung đều được tính thêm 1 mủn
nữa, riêng lai hàng thì không được tính là không khung, nghĩa là phần lai hàng
dù có khung hay không có khung cũng vậy.
Khàn khàn (hay tui tui kín, tui tui bất cầu nhần): là ván
bài gồm 4 phu ngang, bốc lấy mà tới không ăn bên dưới phu nào cả. Ván bài này
được tính 3 mủn.
Tiểu Tứ Hỉ: Gồm 3 phu và một cặp mắt, phải đủ Đông Nam Tây Bắc,
được tính 4 mủn. Ván bài này không được tính thêm lai hàng, nhưng nếu phu còn lại
là phu ngang thì được tính thêm 1 mủn nữa gọi là Tui Tui Tiểu Tứ Hỉ, 5 mủn. Còn
nếu phu còn lại là tài phao thì sẽ được gọi là Tiểu Tứ Hỉ Toàn Chữ có nơi tính
6 mủn có nơi tính tới 8 mủn.
Đại Tứ Hỉ: Cả 4 phu là Đông Nam Tây Bắc, 6 mủn, không được
tính lai hàng, không được tính thêm tui tui, nhưng nếu mắt là tài phao được
tính thêm 2 mủn nữa là 8 mủn, gọi là Đại Tứ Hỉ Toàn Chữ, cũng có nơi tính tới
10 mủn.
Nếu không khung cũng được tính thêm 1 mủn nữa.
"Xuyên": Nếu bốc được con bài đang chờ là 1 con
bài kẹt, nghĩa là chỉ có 1 con bài cho 1 phu dọc thì được tính thêm 1 phán, ví
dụ bốc được con 6 khi trong bài có con 5&7, con 3 khi có 1&2 hoặc con 7
khi có 8&9...
"Tán Tiêu": Con bài bốc được là 1 con duy nhất để
hình thành phu mắt.
Lưu ý: nước bài "xuyên" này là "bốc được con
bài chờ duy nhất" vì thế khi có khung nó thường không được tính, tuy nhiên
nếu có khung mà nước bài đang chờ cũng vẫn chỉ là 1 nước bài duy nhất thì vẫn
được tính, thi dụ ta có khung Tổng hoặc Hợp, nhưng bài trên tay ta đang có là 1
con 6, 2 con 8 và 1 con 9 thì nước bài ta chờ chỉ là 1 con 7, vậy bốc được con
7 thì ta có thêm phán "xuyên"
Đặc Biệt:
Lấy bài xong nhà cái ù liền gọi là Thiên ù, 2 mủn.
Nhà cái đánh 1 con, nhà con ù, gọi là Địa ù, cũng 2 mủn. Nếu
nhà cái đánh hoa mà nhà con ù thì nhà cái phải đền, tổng cộng 3 mủn, chung 3
cái+6con.
Nhà con bốc mà ù ngay thì gọi là Nhân ù, 2 mủn.
Cả Thiên và Nhân ù, nếu bốc từ đầu coong mà ù thì được cộng
thêm 1 phán coong.
Trên đây chỉ là những ván bài căn bản để tính phán, cách
tính điểm dựa theo phán như sau:
1 phán: cái 2, con 1
2 phán: cái 4 con 2
3 phán: cái 8 con 4
4 phán: cái 16 con 8
5 phán: cái 32 (hoặc 30) con 16 (hoặc 15)
6 phán (mủn): cái 64 (hoặc 60) con 32 (hoặc 30).
Xin bổ túc, cách chung trên đây bắt đầu từ 0 phán. Có nghĩa
là mủn ăn 128/64.
Ngày trước ở Sài Gòn và bây giờ nhiều nơi vẫn còn chơi, tới
mủn thưởng thêm 10 điểm nữa, như vậy tới mủn nhà cái chung 74, con chung 42. Vì
ăn thua như vậy hơi lớn nên thường nhiều nơi bỏ điểm thưởng tới mủn, tuy nhiên
vẫn giữ điểm thưởng tới coong là thêm 5 điểm.
Ngoài ra cần phải lưu ý, để ván bài lớn phải biết cách dựng
khung cũng như tính toán, cố gắng để ván bài khi tới đủ 6 phán không cần hơn vì
mỗi phán thêm chỉ được tính thêm 2 điểm, 5 phán cũng chỉ thêm được 10 điểm,
không đáng gì, đôi khi dựng khung sẽ làm bài trở nên khó tới.
Quy luật về dựng khung như sau:
Khung Tổng: Dựng đầu, hoặc cửa 1 dựng bất cứ khi nào 3 phán,
cửa khác dựng sau 2 phán.
Khung Hợp: Dựng đầu, hoặc cửa 4 dựng bất cứ khi nào 3 phán,
cửa khác dựng sau 2 phán.
Đại Hoa, tất cả các cửa dựng bất cứ khi nào đều 2 phán.
Tổng+Hợp: Dựng đầu bất cứ cửa nào 9 phán, dựng sau 1 lần 6
phán.
Thùng: cửa 2 dựng bất cứ khi nào 2 phán, các cửa khác 1
phán.
Soọc: Cửa 3 dựng bất cứ khi nào 2 phán, các cửa khác 1 phán.
Màn: Cửa 4 dựng bất cứ khi nào 2 phán, các cửa khác 1 phán.
Hỉ: cửa 2 dựng bất cứ khi nào 2 phán, các cửa khác 1 phán.
Nguyên: cửa 3 dựng bất cứ khi nào 2 phán, các cửa khác 1
phán.
Hoa trúng cửa thì được 1 phán, không trúng cửa không được
tính phán.
1 bộ hoa được tính 1 mủn, không được tính điểm hoa cửa nữa,
nếu trúng cửa thêm 1 mủn nữa là 2 mủn.
8 hoa bất kể được tính 1 mủn, 10 hoa được 2 mủn, được thêm
điểm hoa cửa. Tuy nhiên không phải mọi nơi đều chơi như vậy, cũng có nhiều nơi
không chơi theo lối tính hoa kiểu này.
Như vậy, trước khi hạ bài xuống ù phải tính xem bài mình được
bao nhiêu phán trước khi xướng, vì khi đã xướng rồi, nếu tính thiếu sẽ không được
tính thêm nữa, rất thiệt thòi, còn tính dư sẽ bị làng tính lại. (Vì bây giờ đa
số đều chơi bài có nhiều bộ khung nên không giới thiệu 1 ván bài pair-pair,
nghĩa là toàn bài khi tới là 7 đôi. Bài này cũng ăn 1 mủn. Nhiều nơi chỉ cho ù,
nếu tự bốc, khác với luật của Hongkong. Ván bài này, nhiều nơi gọi là lục phé
bôn, trong lúc pair-pair được xài cho việc khác, nếu khi chờ bằng 2 đôi (2 con
mắt), mà tự bốc lấy mà ù, thì được thêm 1 phán).
Vài ván bài đặc biệt: 1. Xập xám chướng: 13 quân bài khác
nhau: 7 tài phao + 3 lần quân 1 + 3 lần quân 9, quân thứ 14 tạo thành một đôi.
13 phán. Không khung, thêm 1 mủn. 2. Yêu Cửu: Chỉ toàn quân 1 (yêu) va 9 (cửu),
3 mủn. Lai hàng 9 phán. Không khung thêm 1 mủn. 3. Toàn chữ: Gió và tài phao, 4
mủn. Không khung, thêm 1 mủn. (xin so sánh với, Đại Tứ Hỷ Toàn Chữ bên trên) 4.
Phóng hoa: đánh ra 3 lần hoa, bài sạch khung là ù, 1 mủn. Hoa khi đánh ra có
giá trị như Tổng. Ai đang chờ là đều tới được. Ăn mủn, đền mủn. Nhiều nơi cho
tính Khung như Hoa, nghĩa là, phóng khung thế hoa được, miễn 3 con là được. Nếu
phóng 3 khung xanh thì không cần sạch tài phao cũng ù được. Nếu phóng 2 khung
xanh (khung Hợp kể như khung xanh) và một khung đỏ (khung Nguyên hay khung Hỷ)
thì phải cần sạch tài phao mới ù được. Khung đánh ra, thì có quyền bị ăn, bị phỗng.
Các dị bản khác của Mạt Chược
Cao Hùng là một cách chơi khác của Mạt chược. Thay vì sử dụng
các quân Mạt Chược thông thường thì thay vào đó lại sử dụng đến 2 bộ quân Cờ Tướng
và thay vì dùng 14 quân thì trong Cao Hùng chỉ được sử dụng 8 quân với 2 phu và
1 cặp mắt nhưng cặp mắt phụ thuộc vào 1 Phu trong cây bài để quyết định kiểu ù.
Sign up here with your email
ConversionConversion EmoticonEmoticon